Hơn 80 năm trôi qua, biết bao lớp thợ chạm trổ kim hoàn của quê lúa Thái Bình được “trổ tài” trên đất Thủ đô. Những chiếc vòng, nhẫn, toòng teng… luôn thay hình đổi dạng - được chế tác từ vàng, bạc, đá quý, qua bao bàn tay trần khó nhọc...
Sản phẩm được chạm trổ rất cầu kỳ, tinh xảo, uốn lượn theo nhiều kiểu dáng
Nhớ ngày “gõ cửa” Hà thành
Vào những năm đầu 1940, một bộ phận người Đồng Xâm đã dắt díu nhau ra đất Hà thành mang theo “dao cầu thuyền tán”...
Họ đã trải qua bao nỗi thăng trầm…
Bà Trần Thị Đảo, ở ngõ Thông Phong (Tôn Đức Thắng) nhớ lại:
“Ngày ấy, cũng vì cuộc sống quá bức bối, gia đình tôi phải lang bạt kỳ hồ. Đám người chân ướt chân ráo bén đất Thủ đô, không người thân thích, ngoài mấy đồng trinh dắt túi với ngón nghề thợ bạc”.
Những cuộc mưu sinh với bao chuỗi ngày ăn tạm, ngủ bợ - ấy là cái sự thường của kiếp “thân cô thế cô” nơi đất khách.
Những chiếc nhẫn, khuyên tai hay cái vòng đeo tay, rồi đồ chơi, hộp đựng thuốc lá, gạt tàn... chính là các sản phẩm, bài học thuở đầu khó nhọc qua đôi bàn tay người thợ Đồng Xâm “nhào nặn” mà thành và chúng được “moi” từ những đồ… đồng lát...
Không ít người, ngày ngày cắp tay nải đi rao gọi, ai có nhu cầu hàn, vá nồi đồng, xoong nhôm; hoặc nữa, gõ cửa các nhà chùa nhận sửa sang sắc đẹp cho các vị La hán...
Về sau, nhờ chút vốn liếng tích cóp được, dẫu còm cõi, nhưng họ vẫn mạnh dạn chuyển dần sang đồ kim hoàn.
Phó ban liên lạc đồng hương người Đồng Xâm, cựu Chủ tịch Hội Kim hoàn TP. Hà Nội, ông Nguyễn Ngọc Thiệu nói với tôi rằng, sau mấy mươi năm “rèn rũa”, nhiều người đạt tới trình độ tay nghề cao, trở thành thợ giỏi, nghệ nhân.
Trong làng kim hoàn đất văn vật, không thể không nhắc tới ông Như, ông Lim, bà Đảo... họ đều là người Đồng Xâm, những nghệ nhân nổi tiếng một thời.
“Hồi đó, có thứ mốt - chuộng những di sản cổ... sứt mẻ. Hễ gia đình nào có cổ vật bằng vàng, bạc, đồng, chẳng may bị sứt mẻ; thậm chí có những cổ vật đang còn lành lặn, đám tay chơi cố tình làm cho nó sứt một miếng, để đưa đến các bàn tay nghệ nhân vá lại - làm đồ cổ quý hiếm trong nhà”, ông Thiệu tâm đắc.
Bây giờ, người Đồng Xâm làm ăn sinh sống trên đất Thủ đô có nghề kim hoàn đã lên tới hàng nghìn với hàng trăm cơ sở chuyên sản xuất gia công. Đây đã là một sự hiếm lạ.
Ông Thiệu bộc bạch:
“Người nghèo - cố nhiên ít ai nghĩ tới việc hành nghề kim hoàn. Nhưng người nghèo Đồng Xâm bươn ra Hà Nội làm ăn: 100% bám nghề này! Họ, ngoài một nhẽ kiếm kế sinh nhai, còn có cái sự “níu” nghề để nó khỏi mai một…”.
Góp phần làm đẹp cho đời
Lần theo một con hẻm phố Đội Cấn, tôi tìm vào nhà - xưởng của Nguyễn Văn Vi, chủ một cơ sở gia công kim hoàn người Đồng Xâm.
Nếu không tính cái gác xép thì toàn bộ diện tích chừng 50 mét vuông được dùng làm xưởng, bày la liệt đồ nghề dụng cụ, vật liệu sản xuất.
Vi phân bua: “Chỉ có vậy thôi, cũng đủ mệt”.
Chỉ tay vào đống đồ nghề, Vi bảo:
“Một chiếc mô tơ điện để đánh bóng kim loại vừa nhanh, vừa đẹp, nhanh hơn gấp nhiều lần so trước đây phải dùng mỏ đèn hàn; hay như cái đèn vọt, đèn xì dùng chân đạp thay bằng trước đây phải dùng mồm thổi (kiểu ống tự tạo lắp vào ống bơ nhỏ).
Trang sức Đồng Xâm - góp phần làm đẹp cho đời
Sản phẩm cũng không dừng lại ở đồ đồng, bạc, mà vươn tới đồ vàng, pha chế cả vàng tây. Máy móc hiện đại bằng ấy, thì việc gì phải cần đến xưởng to…”.
Một cậu thợ đang xoay trần bên đống sản phẩm dang dở, thấy vậy mới cầm cây đèn vọt khoanh một vòng tròn lửa, miệng cười góp vui:
- Lý đó là lý... “đầu tiên” (tiền đâu)!!!
Tốp thợ lại lao vào công việc.
Tiếng búa gõ, tiếng máy mài kèn kẹt vang váng; những ngọn đèn xì, đèn hàn đỏ lửa và những tiếng nói, tiếng cười chốc chốc lại rộ lên, phá tan bầu không khí hầm hập, ngột ngạt.
Ai nấy mồ hôi nhễ nhại, mặt mũi nhem nhuốc.
Song dường như họ đã quá quen với cảnh ấy, vẫn cắm cúi miệt mài.
Ông chủ Vi cũng tót vào một cái góc sở trường. Cưa cưa rũa rũa một chập rồi cậu mới ngẩng mặt nói với tôi:
“Tinh những thứ lắt nhắt tựa đồ chơi của lũ trẻ, vậy mà vốn ném vào đó tới hàng trăm triệu đồng cũng chỉ như muối bỏ bể”.
- Có phải vay mượn không?
- Mấy anh em, mỗi người tự chạy vạy đồng vốn hùn vào được già nửa, còn đâu em phải giật nóng.
Vi giả nhời, nhưng mắt vẫn không dời ngọn đèn xì đang bắt lửa mấy cái nhẫn… đồ chơi.
Tiếng là nghề kim hoàn, nhưng họ vắt sức ra mà làm con trâu cày cho thiên hạ, chứ buôn đông bán tây gì.
“Cõng” cả làng nghề lên phố
Vi chở tôi đi ngoắt ngoéo ngoằn ngoèo con rắn mới tới Cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ V (Tổng Đồng Xâm 5) của anh Nguyễn Thế Dân ở phường Ngọc Thuỵ, Long Biên.
Hai bửng nhà cấp 4 lụp sụp cũ kỹ với mảng sân che mưa, nắng tạm bợ, bày biện đủ thứ; thợ làm cả nam, nữ đến mấy mươi người cứ líu ríu.
Không khí ngột ngạt bức bối.
Tôi chẳng ngạc nhiên khi ông chủ Dân bảo “có chốn lạc nghiệp là cầu hên”.
Vi đế thêm:
“Nom cơ ngơi bằng ngần này, nhưng anh Dân đã “gánh” cả làng nghề lên...”.
Xưởng, cả thảy trên 30 thợ toàn người Đồng Xâm. Đồ kim hoàn vàng, bạc, đá quý; tạo dáng mốt mây tre đan, gỗ quý; phục chế các loại bình gốm, sứ, kim loại... làm tuốt!
Thợ kim hoàn Đồng Xâm hành nghề trên đất Hà Nội, phần lớn họ có tay nghề khá cao
Dẫn tôi lượn 1 vòng quanh xưởng, Chính - một thợ phụ trách chuyên môn vừa đi vừa giảng giải:
“Toàn bộ góc kia, dành ưu tiên làm đồ trang sức chế từ vàng, bạc, đá quý. Bộ phận bên này (chỉ đồ gỗ, mây tre đan), về cơ bản chúng cũng giống những kiểu mẫu mã được bày bán ngoài thương trường, nhưng mà độc đáo lắm”.
Nhìn bao quát, tôi thấy đúng là sản phẩm khá... lập dị, nhưng lại không biết tả ra làm sao.
Đại loại như, chúng được chạm trổ rất cầu kỳ, tinh xảo, uốn lượn theo nhiều kiểu dáng: Hình các con vật, hình hoa lá cành, hình trái núi... Kích cỡ thì bộ nào cũng chúm chím xinh xinh. Quả rất ngộ nghĩnh, rất ưa nhìn.
Xem ra, chúng rất phù hợp với các loại phòng trà nhỏ vừa chiếm ít diện tích, lại không kém phần sang trọng.
Cô gái đi cùng có tên Hương Loan cho biết, toàn bộ phần gia công thô gồm bàn, ghế được mua về, đưa đến tay thợ vẽ gia truyền (khắc, chạm trổ), còn cánh thợ nữ chủ yếu đảm nhận khâu bọc trang trí. Sản phẩm cho ra lò, thường theo đơn đặt hàng của đám khách giàu sang.
Chính dẫn tôi đi tiếp tới bộ phận phục chế - nơi có lắm thứ đồ kỳ quặc. Cơ man nào chum, vại, bình, lọ, xuyến, ấm, tích, tách pha trà, vòng, cả điếu hút thuốc lào, gạt tàn thuốc lá, hình các con vật... được làm từ gốm, sứ, kim loại.
Thứ hàng “độc chiêu” này đang cuốn hút khách thiên hạ.
Một tốp thợ đang mải cắm cúi vẽ quanh các lục bình; tốp khác thì sửa sang từng cái quai đeo quai xách của ấm tích. Rồi bọc, rồi gắn sơn son thếp vàng...
Tôi xà vào đống hàng sứt mẻ đang phục chế và chọn một cái bình kim loại khá nặng sứt miếng tướng, đưa lên ngắm nghía, miệng lẩm bẩm:
- Chẳng hay nó quý ở chỗ nào?
- Quan bác ạ, không biết thì chớ có “sờ” vào. Giả mấy chục “vé” (vài ngàn USD) còn chưa ngã...”, vị khách đứng bên xấp giọng.
Bộ trà bằng bạc
Vẻ sành điệu, anh ta phán:
“Cái bình này từ đời Lý, đưa phục chế, vá lại rồi kết hợp cốt trong nguyên thủy với bọc ngoài tinh xảo hiện đại, thì cho ra thứ vô cùng giá trị”…
Tôi biết, thợ kim hoàn Đồng Xâm hành nghề trên đất Hà Nội, phần lớn họ có tay nghề khá cao.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mang lại nên người nào có điều kiện, cũng chỉ dám mở xưởng nhỏ ở những địa điểm hết sức khiêm tốn.
Lắm người, chỉ đi làm thuê gia công cho các chủ chuyên kinh doanh vàng bạc, đá quý…
Lịch sử làng nghề Tổng Đồng Xâm xưa (nay là xã Hồng Thái, Kiến Xương, Thái Bình) còn ghi: “Vào năm 1434 thời Lê Sơ, có ông Nguyễn Kim Lâu, người châu Bảo Lạc (Cao Bằng) về vùng này dựng nghiệp rồi truyền nghề chạm bạc cho dân trong làng... Ông trở thành ông tổ của nghề chạm bạc Đồng Xâm.
Nhiều thế kỷ trôi qua, nghề chạm bạc gắn với con người Đồng Xâm, tạo nên những nghệ nhân, thợ giỏi nổi tiếng trong vùng. Từ nghề chạm bạc, phát triển thành nghề kim hoàn và tỏa đi muôn nơi.
Theo những ghi chép trong sách sử thì, làng Đồng Xâm hình thành vào cuối thời Trần - Hồ (cách nay trên 600 năm). Nhưng nghề chạm bạc ở đây thì mãi về sau mới xuất hiện. Làng hiện còn một am thờ và một tấm bia đá ở trong khu chùa Ðường (thôn Thượng Gia ngày nay).
Ðó là một văn bia Tổ nghề (dựng năm 1689). Trên văn bia có ghi:
"Hoàng triều Chính Hòa thập niên, Tổ phụ Nguyễn Kim Lâu. Bảo Long tụ lạc học nghệ, đáo Ðồng Xâm xứ kiến lập thập nhị phường kim hoàn truyền nghệ".
Tạm dịch:
"Năm thứ mười dưới triều vua Chính Hòa (1689), vị tổ sư Nguyễn Kim Lâu vốn làm nghề vàng bạc ở châu Bảo Long, tới xứ Ðồng Xâm lập ra mười hai phường để truyền nghề.
Cụ Nguyễn Kim Lâu sống vào khoảng đầu thế kỷ XVII. Nghề chạm bạc Ðồng Xâm đã tồn tại gần 400 năm.
Buổi đầu là nghề hàn đồng, gò thùng chậu, đánh dao kéo, chữa khóa, làm quai và vòi ấm tích, điếu bát...; về sau mới làm đồ kim hoàn, chuyên sâu về chạm bạc.
Như nhiều nghề thủ công cao cấp khác, nghề kim hoàn mang lại thu nhập cao cho người thợ; Kỹ thuật lại hết sức phức tạp nên suốt mấy trăm năm qua, người Ðồng Xâm luôn giữ bí quyết nghề.
Ðến nay, kỹ thuật này không còn là độc quyền của thợ Ðồng Xâm. Nhưng một số thủ pháp kỹ thuật và nghệ thuật tinh xảo nhất vẫn được giữ bí truyền.
Phường chạm bạc xưa đã quy định chặt chẽ trong Hương ước của làng: Người nào đem bí quyết nghề truyền dạy cho nơi khác, cho người làng khác hay làm đồ giả để lừa người khác, gây sự bất tín, thì phải phạt thật nặng hoặc đem đánh đòn trước nhà thờ Tổ, hoặc phải xóa tên trong phường.
Sản phẩm chạm bạc Ðồng Xâm khác hẳn và nổi trội so sản phẩm bạc của các nơi khác ở các kiểu thức lạ về hình khối, dáng vẻ sản phẩm, ở các đồ án trang trí tinh vi mà cân đối, lộng lẫy; nổi rõ chủ đề chính, ở thủ pháp xử lý sáng - tối nhờ tận dụng đặc tính phản quang của chất liệu bạc.
Ðặc trưng của sản phẩm Ðồng Xâm là sự điêu luyện tế nhị và hoàn hảo tới mức tối đa.
Có thể nói rằng, tài năng và tính cẩn trọng của nghệ nhân bạc Ðồng Xâm, đã và đang có thể đáp ứng được mọi yêu cầu sử dụng đồ chạm bạc của những khách hàng khó tính và am tường nghệ thuật nhất.
Suốt những năm kháng Pháp (1946 - 1954), nghề chạm bạc Đông Xâm đình đốn.
Thợ chuyên hàn xì...
Mãi đến sau ngày hòa bình lập lại cho tới nay, sản xuất đồ vàng bạc được phục hồi và phát triển. Nhưng các sản phẩm của những năm làm ăn tập thể, nhìn chung ít sáng tạo, nhỏ lẻ và khá đơn điệu.
Phải đợi đến thời kỳ đổi mới, người thợ chạm bạc mới thực sự "vẫy vùng mặc sức" trong cơ chế thị trường, được tự làm, tự bán theo kiểu các doanh nghiệp nhỏ, quy mô gia đình, sản phẩm được trực tiếp xuất khẩu...
Vận hội mới đang quay trở lại với người Ðồng Xâm và nghề chạm bạc.
Thợ Ðồng Xâm hiện nay, phần lớn hành nghề ở làng, nhiều gia đình trở nên giàu có. Một số thợ, nhất là thợ trẻ vẫn tỏa đi khắp nơi, vừa sản xuất vừa dạy nghề.
Ở môi trường nào cũng vậy, từ xa xưa đến nay, thợ bạc Ðồng Xâm luôn lấy chữ Tín, chữ Tài làm trọng.
Họ giữ phẩm chất, lương tâm người thợ và tinh hoa kỹ thuật nghề nghiệp của đất nước, quê hương.
Sản phẩm của họ, do đó vẫn giữ được niềm tin của khách hàng ở khắp mọi nơi - một thứ của thật, không hề pha trộn, không bao giờ được cẩu thả...
Làng nghề chạm bạc Ðồng Xâm, xã Hồng Thái (tên cũ là Ðường Thâm, Kiến Xương, Thái Bình), bên hữu ngạn Ðồng Giang, hình thành vào cuối thời Trần, cách đây hơn 600 năm.. Mới “bén” đầu thôn, đã nghe văng vẳng bên tai âm thanh đặc trưng của làng nghề: Tiếng đục đẽo của thợ chạm khắc trên đường làng, ngõ xóm liên tục vang lên - đủ để thấy không khí lao động sôi nổi của những nghệ nhân nơi này…
Phóng sự của Xuân Phong