Theo các chuyên gia, cần có quy trình phòng, chống dịch thống nhất để tránh xảy ra tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng, qua đó hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sản xuất , kinh doanh và xuất khẩu.
Giá vận chuyển, nguyên liệu tăng cao
Hiện là thời điểm các doanh nghiệp dệt may đẩy mạnh sản xuất hoàn tất các đơn hàng. Tuy nhiên, giá nguyên phụ liệu trên thế giới đang vào thời kỳ tăng giá mạnh. Theo đó, giá bông, giá sợi đều tăng cao đã tác động trực tiếp đến giá nguyên phụ liệu ngành dệt may của Việt Nam.
Theo khảo sát, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường nhập khẩu từ 60 - 70% nguyên liệu sản xuất. Vì vậy giá nguyên phụ liệu hiện nay gần như phụ thuộc từ biến động thị trường thế giới.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tính hết tháng 9, tổng kim ngạch nhập khẩu của nhóm hàng này đạt tới 19,6 tỷ USD, tăng 26,9%, tương ứng tăng 4,2 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2020.
Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) Cao Hữu Hiếu cho biết, hầu hết các đơn vị trong Tập đoàn hiện đã có đơn hàng đến hết quý IV/2021, thậm chí là quý I/2022, tuy nhiên, thời gian qua các doanh nghiệp may ở các tỉnh, thành phố phía nam rơi vào tình trạng sản xuất cầm chừng, đóng cửa nhà máy do diễn biến phức tạp của dịch bệnh. Nhiều doanh nghiệp áp dụng chế độ làm việc “3 tại chỗ” để hoàn thành các đơn hàng khiến chi phí phát sinh tăng cao, bị thua lỗ.
Xu hướng giá nguyên liệu đầu vào tiếp tục tăng trong thời gian tới sẽ là thách thức lớn cho doanh nghiệp, nhất là đối với những doanh nghiệp đã ký với khách hàng giá thấp từ năm ngoái sẽ phải chịu thiệt hại không nhỏ.
Tổng Giám đốc Vinatex Cao Hữu Hiếu cho biết thêm, Tập đoàn đã triển khai mạnh mẽ nhiều giải pháp ứng phó nhằm hạn chế tác động tiêu cực của dịch bệnh và giá nguyên liệu đầu vào tăng. Đối với việc đứt gãy chuỗi cung ứng gây nên tình trạng nguyên liệu về chậm hay giá nguyên phụ liệu và phí logistics tăng mạnh thời gian qua, đơn vị sản xuất phải làm việc chặt chẽ với khách hàng và kêu gọi khách hàng chia sẻ khó khăn trong công tác triển khai đơn hàng, cùng nhau đưa ra giải pháp tối ưu nhất.
Thực hiện đơn hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản của CTCP may Hưng Việt, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Ảnh: Trần Việt/TTXVN
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng chủ động làm việc với nhà cung cấp để tránh giá tăng quá cao gây ảnh hưởng đến đầu ra, nâng cao công tác dự báo thị trường để có kế hoạch nhập khẩu nguyên phụ liệu dự trữ, tránh tác động khi giá tăng phi mã.
Đảm bảo chuỗi cung ứng
Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết, dịch bệnh COVID-19 bùng phát cùng với tác động của các biện pháp phòng, chống dịch đã gây ảnh hưởng sâu sắc đến chuỗi cung ứng hàng hóa.
Hiệu ứng đầu tiên khi COVID-19 lan đến Việt Nam từ đầu năm 2020 là đã làm gián đoạn, thiếu hụt nguồn cung nguyên liệu. Lúc đầu, chúng ta lo ngại tình hình dịch bệnh ảnh hưởng đến xuất khẩu nông sản qua biên giới Trung Quốc, nhưng sau đó là tình trạng thiếu hụt nguồn cung, do Trung Quốc là nơi cung ứng nguồn nguyên liệu bán thành phẩm cũng như thành phẩm rất lớn, nhiều ngành sản xuất của Việt Nam đang sử dụng nguồn cung từ Trung Quốc như dệt may, da giày, đồ gỗ, điện tử…
Khi Trung Quốc dần khống chế được dịch bệnh, khôi phục được nguồn cung, thì dịch bùng phát rộng ở EU và Bắc Mỹ, một số nhãn hàng đã có động thái giãn, hoãn hoặc ngừng nhận đơn hàng từ các nước, trong đó có Việt Nam.
Đợt dịch COVID-19 lần thứ tư bùng phát từ cuối tháng 4 đến nay là nặng nề nhất, đã khiến các doanh nghiệp Việt Nam tại phía Nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nhiều nhà máy phải tạm dừng sản xuất, đơn hàng không thực hiện được, xuất khẩu sụt giảm so với cùng kỳ năm 2020.
Theo ông Trần Thanh Hải, dịch bệnh đã đẩy chi phí vận tải biển tăng cao kỷ lục, gây ra hiện tượng mất cân bằng ở nhiều mắt xích trong chuỗi cung ứng… Cùng với đó, ở trong nước thời gian qua, mặc dù, Chính phủ đã có văn bản chỉ đạo, trong đó nêu rõ, mọi hàng hóa đều được phép lưu thông, trừ hàng cấm và hàng hạn chế kinh doanh, nhưng nhiều địa phương vẫn đặt ra quy định chỉ cho lưu thông hàng hóa thiết yếu. Hay có những biện pháp chống dịch quá đà, không thống nhất giữa các địa phương, gây ra chi phí tốn kém cho Việt Nam. Tất cả những điều đó tạo ra sự đứt gãy. Do đó, biện pháp chống dịch cần phải tạo điều kiện để lưu thông hàng hóa, hạn chế tạo ra rào cản.
“Với sự chỉ đạo của Chính phủ, chúng ta cũng đang nỗ lực xây dựng quy trình chống dịch thống nhất, dễ hiểu, dễ áp dụng, tránh phân mảnh như hiện nay giữa các địa phương, giữa các cấp ngay trong một địa phương, giữa chính quyền từ tỉnh, thành phố đến cấp huyện, xã… Một quy trình chống dịch thống nhất sẽ giúp các địa phương, doanh nghiệp chủ động phương án phòng chống, ứng phó khi có dịch xảy ra. Theo đó, dựa trên cơ sở đã được Trung ương hướng dẫn, các địa phương, doanh nghiệp sẽ tự động áp dụng, không cần phải đợi phê duyệt, xin phép, qua đó giúp gỡ bỏ rào cản “ngăn sông, cấm chợ”, gây nên tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng như vừa qua”, ông Trần Thanh Hải cho hay.
Theo TS Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trong thời gian dịch bệnh phức tạp, nhiều doanh nghiệp bị đứt gãy chuỗi sản xuất dẫn đến một số đơn hàng đã ký trước đó bị khách hàng hủy hoặc chuyển dịch sang nước khác. Do đó, thời gian tới, doanh nghiệp cần nỗ lực để lấy lại đơn hàng bằng cách đẩy mạnh sản xuất.
Để thúc đẩy sản xuất, điều quan trọng nhất các doanh nghiệp cần là các chính sách hỗ trợ trực diện như: hỗ trợ tài chính, miễn hoặc giảm mạnh các loại thuế, phí (như phí bảo hiểm xã hội, phí công đoàn,…) hay gói hỗ trợ lãi suất tín dụng kịp thời nhằm nhanh chóng khôi phục sản xuất đầy đủ.
Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách giúp doanh nghiệp tận dụng hiệu quả nguồn lao động đang có, nới lỏng hoặc bỏ các hạn chế về số giờ làm thêm tối đa, giúp doanh nghiệp thu hút lao động quay trở lại làm việc thông qua việc hỗ trợ chi phí suất ăn ca, thuê trọ, hay việc tổ chức xét nghiệm định kỳ miễn phí cho người lao động.
Thu Trang